Lao tiềm ẩn là gì và những ai có nguy cơ bị lao tiềm ẩn?
Theo tổ chức Y tế thế giới “(WHO) một phần ba dân số thế giới được ước tính bị lây nhiễm vi khuẩn lao M. tuberculosis hay còn gọi là lao tiềm ẩn. Đây là một trong 10 bệnh truyền nhiễm gây tử vong hàng đầu hiện nay. Những người mắc lao tiềm ẩn phần lớn không có triệu chứng hoặc dấu hiệu của bệnh lao và cũng không có khả năng lây nhiễm bệnh cho người khác. Tuy nhiên, đây là đối tượng có nguy cơ hàng đầu phát triển thành bệnh lao hoạt động trong tương lai nếu như không được phát hiện và điều trị dự phòng. Khi đó những bệnh nhân lao do thể lao tiềm ẩn tiến triển sẽ trở thành nguồn lây truyền bệnh trong cộng đồng.
1. Lao tiềm ẩn là gì ?
Bệnh lao hay lao hoạt động là tình trạng người bệnh bị nhiễm vi khuẩn lao ở một hoặc nhiều bộ phận trong cơ thể, gây ra các triệu chứng nguy hiểm và có khả năng lây truyền cho người khác. Bệnh lao có thể gặp ở tất cả các bộ phận nhưng phổ biến nhất là lao phổi, chiếm đến 80 – 85% các trường hợp bệnh lao. Đây là nguồn lây truyền bệnh lao chính trong cộng đồng. Các triệu chứng lâm sàng của bệnh lao phổi là ho khạc đờm kéo dài, ho ra máu, sốt, mệt mỏi, sụt cân, đau ngực, khó thở ... Ở người mắc bệnh lao có thể tìm thấy bằng chứng vi khuẩn lao qua các xét nghiệm nhuộm soi, nuôi cấy, kỹ thuật sinh học phân tử như Gen- Xpert- MTB/RIF hoặc bằng chứng mô bệnh học nhiễm lao.
Trong khi đó, nhiễm lao hay lao tiềm ẩn là một trạng thái đáp ứng miễn dịch liên tục với sự kích thích của kháng nguyên vi khuẩn lao (Mycobacterium tuberculosis - MTB) mà không có bất kỳ bằng chứng lâm sàng nào cho thấy bệnh lao hoạt động. Người nhiễm lao có sự tồn tại vi khuẩn lao trong cơ thể nhưng do sự khống chế của hệ thống miễn dịch nên chúng không hoạt động, không sinh trưởng và không biểu hiện triệu chứng. Vì chỉ là phản ứng miễn dịch nên người bị nhiễm lao sẽ không gây lây truyền bệnh cho người khác, chưa ảnh hưởng đến sức khoẻ. Tuy nhiên, điều nguy hiểm là khi sức đề kháng của cơ thể suy giảm, vi khuẩn lao có thể tái hoạt động và biểu hiện thành bệnh lao sau này và trở thành nguồn lây truyền bệnh. Theo ước tính, có đến 5-10% bệnh nhân lao tiềm sẽ tiến triển thành bệnh lao ẩn trong vòng 5 năm đầu tiên.
2. Đối tượng có nguy cơ cao nhiễm lao gồm 2 nhóm chính là:
Nhóm những người tiếp xúc gần hoặc tiếp xúc thường xuyên với bệnh nhân lao phổi:
Người lớn hoặc trẻ em tiếp xúc hộ gia đình với với bệnh nhân lao phổi.
Nhân viên y tế làm việc tại các cơ sở y tế khám bệnh hoặc điều trị bệnh nhân lao.
Cán bộ quản giáo, nhân viên làm việc tại các cơ sở có người có nguy cơ bệnh lao cao như trại vô gia cư, trại giáo dưỡng, nhà dưỡng lão, bệnh viện Lao – HIV.
Dân di cư từ các quốc gia có dịch tễ lao cao.
Nhóm những người có các yếu tố làm tăng nguy cơ tiến triển từ lao tiềm ẩn thành bệnh lao:
Người nhiễm HIV
Bệnh nhân bị bệnh bụi phổi.
Bệnh nhân đái tháo đường.
Bệnh nhân suy thận, người đang điều trị thận nhân tạo.
Bệnh nhân ghép tạng hoặc chuẩn bị cấy ghép tạng
Người tiêm chích ma tuý
Người sụt cân nhiều, kéo dài
2. Chẩn đoán lao tiềm ẩn
Chẩn đoán lao tiềm ẩn được đưa ra khi đảm bảo 2 yếu tố:
Xét nghiệm Mantoux hoặc IGRA dương tính.
Loại trừ được lao hoạt động thông qua khám lâm sàng, hình ảnh XQ phổi hoặc xét nghiệm bệnh phẩm ở các các cơ quan nghi lao không tìm thấy sự hiện diện của vi khuẩn lao.
3. Cơ sở chẩn đoán và điều trị lao tiềm ẩn
Để chủ động phát hiện sớm và điều trị sớm chư ảnh hưởng đến sức khoẻ và không để lao tiềm ẩn phát triển thành Lao hoạt động. mọi người dân hãy đến bệnh Viện Phổi tỉnh Lai Châu để được tư vấn, xét nghiệm sàng lọc, phát hiện sớm lao tiềm ẩn.
- Bệnh viện Phổi tỉnh lai Châu là cơ sở Y tế tuyến đầu tại tỉnh Lai Châu chuyên sâu về khám phát hiện sớm bệnh Lao, Lao tiềm ẩn và các bệnh về phổi
- Với đội ngũ Y, bác sĩ được đào tạo chuyên sâu, có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực chẩn đoán và điều trị bệnh lao, cùng với hệ thông trang thiết bị Y tế, xét nghiệm tiên tiến, hiện đại giúp nhanh chóng phát hiện sớm Lao tiềm ẩn và Lao hoạt động, Tại đây mọi người dân được tư vấn nhiệt tình, chu đáo, được khám phát hiện sớm Lao tiềm ẩn và điều trị sớm.
Lựa chọn phác đồ điều trị:
Phác đồ 6H: Điều trị hằng ngày bằng isoniazid (INH hoặc H) trong 6 tháng. Phác đồ này áp dụng đối với cả người lớn, vị thành niên và trẻ dưới 10 tuổi
Phác đồ 3HP: Điều trị hằng tuần bằng isoniazid (H) và rifapentine (P) trong thời gian 12 tuần (12 liều) cho người lớn và trẻ em từ 2 tuổi trở lên. Bác sĩ: nguyễn Xuân Giang
Một số hình ảnh khám sàng lọc lao, lao tiềm ẩn và các bệnh về Phổi tại cộng đồng